Nước Trời Của Những Ai Nên Giống Như Trẻ Nhỏ (Mt 19,4)

 

Sư Phạm
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

 

 

 

- Phần I: Giáo lý - Sư Phạm Giáo Lý

- Phần II: Dạy Giáo Lý Theo Lứa Tuổi

- Phần III: Các Phương Pháp

- Sư Phạm Giáo Lý: 30 câu Hỏi-Thưa

 

 

Khoa Tâm Lý Sư phạm là Tâm lý học được ứng dụng vào việc giáo dục đào tạo, giúp ta hiểu rõ hơn những đặc điểm và sự phát triển tâm lý của con người, nhờ đó, ta biết chọn lựa những phương pháp giáo dục thích ứng với tâm lý con người, trong từng giai đoạn tuổi.

 

PHẦN I: Giáo lý - Sư Phạm Giáo Lý

 

Bài 1: GIÁO LÝ

1- ĐỊNH NGHĨA GIÁO LÝ
Giáo lý là lý thuyết, lý lẽ của một đạo, một tôn giáo: Sách Giáo lý.

Là trình bày chân lý đức tin cách đơn giản, cụ thể, sống động, giúp người học hiểu và sống đức tin: Dạy Giáo lý. Làm vang dội Lời Chúa trong lòng người nghe, giúp họ hoán cải. Là một phần của Thần học mục vụ, một môn học như mọi môn học khác: có thầy dạy trò nghe, có học có hành; nhưng khác ở chỗ: chính Chúa dạy cả thầy lẫn trò. “Giáo lý là giáo dục đức tin cho trẻ em, giới trẻ và người lớn, được hiểu cách đặc biệt là giảng dạy đạo lý Kitô giáo, thực hiện cách có tổ chức và có hệ thống, nhằm dẫn vào sự sung mãn đời sống Kitô hữu ” (DGL.18).

 

2 - BẢN CHẤT CỦA GIÁO LÝ
Giáo lý là tác động chính yếu của Giáo hội trong sứ mạng Truyền giáo.

Giáo lý là môn Trí dục: dùng ngôn ngữ, hình ảnh... để làm cho hiểu.

Giáo lý là môn Đức dục: đưa giá trị đạo đức vào tâm hồn người, để họ hiểu, cảm nghiệm và quyết tâm hành động.

Giáo lý là sự Hướng dẫn đến sự gặp gỡ và hiệp thông trong đức tin: Chúa nói, con người tiếp nhận, đưa đến gặp gỡ và hiệp thông với Chúa và Giáo Hội.

....Chúa nói...............Gặp gỡ Chúa Sống với Chúa
................Con người................................tiếp nhận
....Bài giáo lý...........................Quyết tâm cầu nguyện

Giảng dạy Thực tập: - Tài liệu, Bài tập

 

3 - VỊ TRÍ CỦA GIÁO LÝ
Giáo Lý là một trong những hình thức thi hành nhiệm vụ giáo huấn của GH:
1). Truyền giảng Phúc âm: cho người chưa tin (Tiền Huấn giáo).

2). Dạy Giáo lý: Đào sâu đức tin trong các lớp Giáo lý (Huấn giáo).

3). Giảng thuyết: bài giảng trong Thánh lễ (Homélie).

4). Thần học: trình bày chân lý đức tin cách hệ thống và khoa học.

 

4 - MỤC ĐÍCH GIÁO LÝ
1). Giáo dục đức tin: (hay Thông truyền Đức tin)
Đào tạo trưởng thành Đức tin: đứng vững trong mọi hoàn cảnh.
Đào tạo ki tô hữu toàn diện: nhân bản, qui hướng về Chúa Kitô.
Đào tạo ki tô hữu sẵn sàng dấn thân phục vụ: Giáo Hội, xã hội.

2). Mục đích của Dạy Giáo lý không chỉ nhằm giúp con người tiếp xúc gặp gỡ, nhưng còn hiệp thông thân mật với Đức Kitô: chỉ mình Ngài đưa ta đến tình yêu Chúa Cha, trong Thánh Thần, và làm cho ta thông dự vào đời sống TCBN (DGL.5).

3). Cụ thể:- Giáo lý nhằm Chuẩn bị lãnh nhận Bí tích, qua 3 giai đoạn:
Thông truyền kiến thức tôn giáo (hiểu biết) Hoán cải bản thân (luân lý) Đưa vào đời sống mới trong Chúa Giêsu (Bí tích)

 

5 - NỘI DUNG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO
Cấu trúc căn bản: Có 4 phần (x.GLGHCG, 1992 )

I - Tuyên xưng đức tin (Tín lý)
II - Các Bí tích đức tin (Phụng vụ - Bí tích)
III - Đời sống đức tin (Luân lý)
IV - Kinh nguyện trong đời sống đức tin (Kinh Lạy Cha)

Bốn phần được nối kết với nhau = Mầu nhiệm Kitô giáo:

- Là đối tượng của Đức tin (Phần I);

- Mầu nhiệm ấy được cử hành và thông truyền trong Phụng vụ (Phần II);

- Mầu nhiệm ấy soi sáng và nâng đỡ tín hữu trong đời sống Luân lý (Phần III);

- Mầu nhiệm ấy đặt nền tảng cho Kinh nguyện, diễn tả đặc biệt qua kinh “ Lạy Cha ”, là nội dung lời cầu nguyện của tín hữu (Phần IV).

Dạy Giáo lý, ta cần trình bày Tin Mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, mà vị trí trung tâm Giáo lý là Đức Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất, Đấng luôn hiện diện và hoạt động nơi trần thế, qua Thánh Thần và Hội Thánh

 

6 - NGUỒN MẠCH GIÁO LÝ
Giáo lý phát xuất từ kho tàng Lời Chúa, được khơi từ 4 nguồn sau:

Thánh Kinh: là nguồn chủ yếu của Giáo lý: chính Chúa ngỏ lời với con người. TK thuật lại sự can thiệp của TC vào lịch sử nhân loại để thực hiện việc cứu độ. Nội dung Lịch sử cứu độ cũng là nội dung Giáo lý.

Thánh Truyền: là một phần mạc khải, được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các lời giáo huấn của các Giáo phụ.

Phụng Vụ: Phụng vụ làm cho bài Giáo lý trở thành cụ thể, sống động, biến sự hiểu biết bằng lý trí thành cảm nghiệm nơi tâm hồn. Phụng vụ tạo sự hiểu biết các mầu nhiệm ki tô giáo và gợi lên lòng tin, cậy, mến.

Giáo huấn và đời sống của Giáo Hội: Giáo huấn của Đức Giáo hoàng, các Công Đồng, Giám mục đoàn, và đời sống chứng tá đức tin của toàn thể Dân Chúa cũng là nguồn sống động và mang thời sự của Giáo lý.

 

Bài 2. GIÁO LÝ VIÊN

1. GIÁO LÝ VIÊN là ai ?

a). Định nghĩa:
Giáo Lý Viên (GLV) là những người chia sẻ sứ mạng của Hội Thánh, sứ mạng quan trọng nhất, đó là Rao giảng Tin mừng. “ Việc dạy Giáo lý được Hội Thánh coi là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của mình ” (DGL1).

“GLV là những giáo dân có trình độ và đời sống đạo hạnh, dưới sự hướng dẫn của các nhà truyền giáo, hiến thân lo giảng dạy Giáo lý Tin mừng, tổ chức các cử hành Phụng vụ và các việc bác ái ” (Gl.785.1)

“GLV là một giáo dân được GH đặc cử tuỳ theo nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và noi theo ” .(Hd.GLV.1)

b). Ơn gọi GLV: Mỗi tín hữu trong Hội Thánh đều được Chúa Thánh Thần mời gọi góp phần làm cho Nước Chúa mau đến. Ơn gọi GLV không những bắt nguồn từ BT Rửa tội và Thêm sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của CTT, “ một đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận và uỷ nhiệm ” (Hd.GLV.2).
Như thế, Ơn gọi GLV vừa có tính “ tổng quát ” , vì tham gia vào việc mở mang Nước Chúa, vừa có tính “ chuyên biệt ” , vì dành riêng cho việc Dạy Giáo Lý. GLV cần phải khám phá, nhận định và vun trồng Ơn gọi của mình.
c). Vài nét diễn tả con người Giáo Lý Viên:
1. GLV là người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi.
2. GLV là người hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu.
3. GLV là người sống theo Lời Chúa dạy.
4. GLV là người có khả năng chia sẻ niềm tin cho người khác.
5. GLV là người gắn bó với Hội Thánh và được Hội Thánh sai đi.

 

2. THÀNH PHẦN GIÁO LÝ VIÊN
“Do chức vụ của mình và ở các cấp bậc khác nhau, các vị Chủ chăn (Đức Giám Mục) có trách nhiệm trên hết trong việc nâng cao, hướng dẫn và phối trí việc dạy giáo lý... Đối với các linh mục và tu sĩ nam nữ, đó là lãnh vực đặc biệt cho việc Tông đồ. Ở một cấp độ khác, các phụ huynh... các giáo lý viên... tất cả mọi người, ở mọi trình độ khác nhau, đều có trách nhiệm rõ rệt trong việc giáo dục lương tâm các tín hữu. Việc giáo dục này rất quan trọng cho đời sống Giáo hội và xã hội ” (DGL.16).

 

a) - Linh mục thi hành sứ mạng rao giảng.
Linh mục là người được tuyển chọn, tấn phong và trao cho sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ. “ Các linh mục là người mắc nợ mọi người về việc truyền thông cho họ chân lý Phúc âm mà các ngài đã được nhận nơi Chúa ” (ĐSLM. 4).
Có nhiều hình thức giảng Lời Chúa, trong đó việc tổ chức dạy giáo lý thường xuyên, cho mọi người là một nhu cầu không thể không có. Cho dù hoàn cảnh, công việc bận rộn, thiếu nhân sự, thiếu tài liệu... không được xao lãng huấn giáo.
Linh mục cần quan tâm tổ chức dạy giáo lý: tạo mô hình và điều hành các lớp giáo lý, tuyển chọn và huấn luyện GLV, yểm trợ và khích lệ các lớp giáo lý. Quan tâm đặc biệt các lớp giáo lý Dự tòng.

 

b) - Tu sĩ thi hành sứ mạng rao giảng.
Tu sĩ là người tận hiến đời mình để hoàn toàn sống cho Chúa và cho tha nhân. Sống cho Chúa là thực thi các ý định của Chúa, sống cho tha nhân giúp họ thăng tiến đời sống tâm linh, để xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Ý định của Thiên Chúa là: “ Hãy đi rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo ” (Mc 16,15). Toàn Giáo hội, mỗi người đều thực hiện ý Chúa, thì trong cương vị tu sĩ càng phải đem hết khả năng của mình để rao giảng Tin mừng.
“Giáo hội muốn tăng cường sự hiện diện tích cực của các cộng đoàn tu sĩ trong kế hoạch mục vụ của các Giáo hội địa phương ”(DGL 65): có nghĩa là tu sĩ hợp tác với các vị chủ chăn trong giáo xứ và giáo phận để giảng dạy giáo lý cho thanh thiếu niên nhi đồng. “Qua dòng lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã rất tận tuỵ trong hoạt động dạy giáo lý và hoạt động của họ hết sức hữu hiệu và thành công”(DGL 65).

Cần tích cực chuẩn bị: “Cha khuyên các con hãy tích cực chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho nhiệm vụ dạy giáo lý”. Sự chuẩn bị qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn học tập Thần học Thánh Kinh, nhất là môn Sư phạm Giáo lý;
Giai đoạn trước khi dạy, hãy soạn bài kỹ, nắm vững và thuộc nội dung, tìm cách trình bày mạch lạc.
Cuộc đời dâng hiến có ý nghĩa thật tròn đầy là: kiện toàn chính mình trong việc học hỏi và sống Lời Chúa, đồng thời thông truyền đức tin cho nhiều tâm hồn.

 

c) - Giáo dân thi hành sứ mạng rao giảng.
“Giáo dân, vì là thành phần của Giáo hội, nên mang ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin mừng. Các bí tích khai tâm Kitô giáo và các ơn huệ của Chúa Thánh Thần đã trang bị khả năng cho họ và thúc giục họ thi hành sứ vụ này. Các ki tô hữu làm cha mẹ phải là những Giáo lý viên đầu tiên cho con cái mình, không ai thay thế được” (KTH.GD. 34).
Toàn thể giáo dân có bổn phận thi hành công tác theo khả năng và vị trí từng người.
Bậc cha mẹ ý thực nhiệm vụ giáo dục đức tin cho con cái.
Những người trưởng thành, các thanh niên nam nữ đi tiên phong trong việc khai mở và bảo vệ đức tin, thực thi qua vai trò Huynh trưởng và Giáo lý viên trong các hoạt động mục vụ giáo lý.

 

3. VAI TRÒ và TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO LÝ VIÊN
Các Văn kiện GH luôn nêu cao vai trò không thể thiếu của GLV trong Hội Thánh: GLV là nhà sư phạm, nhà giáo dục, người trung gian, người hướng dẫn, chứng nhân Lời Chúa, chuyên viên loan báo Tin mừng…
Vai trò GLV được thực thi trong tương quan với hoạt động truyền giáo: Công khai rao truyền sứ điệp Kitô giáo.
Đồng hành với các Dự tòng (từ khai tâm đến trưởng thành đức tin)
Hiện diện và làm chứng để thăng tiến con người. Nỗ lực hội nhập văn hoá và đối thoại. (Hd.GLV.3)

Tầm quan trọng của Giáo Lý Viên, lời Đgh. Gioan Phaolô II:
- GLV là người góp phần đặc biệt và hết sức cần thiết cho việc loan truyền đức tin và mở mang Hội Thánh.
- GLV là những người cộng tác và xây dựng Giáo hội thật sự.
- GLV là những người đang làm công tác giáo dục đức tin.

 

4. HÀNH TRANG CẦN THIẾT CỦA GIÁO LÝ VIÊN
Đức tin sống động: Giáo lý là “Nói về Chúa”, lời nói cần được GLV chứng minh cụ thể bằng “Sống với Chúa”, “cảm nghiệm tình Chúa”.

Căn bản giáo lý: Nắm vững nội dung giáo lý, toàn bộ Tin Mừng, trung tâm là mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa Giêsu. GLV cần được đào tạo và bồi dưỡng liên tục về kiến thức tôn giáo và kỹ năng sư phạm.

Hiểu về tâm lý và sư phạm: Để đạt hiệu quả cao trong việc dạy giáo lý, GLV cần lưu ý đến nhu cầu tâm lý và khả năng tiếp nhận của người học. GLV cần hiểu tâm lý học viên và biết những phương pháp sư phạm, để ứng dụng giảng dạy theo lối thích hợp nhất, vừa tầm người nghe, để Lời Chúa linh động và đánh động lòng người.
Lòng thương yêu học viên: Giáo dục là nhằm cảm hoá, và chỉ có tình yêu mới có sức mạnh cảm hoá lòng người. Giáo lý còn là Giáo dục đức tin, nên GLV cần nhận ra tình thương, đáp trả tình thương Chúa và chan hoà tình thương Chúa cho người học.

 

5. GIỚI HẠN CỦA GIÁO LÝ VIÊN
GLV chỉ là dụng cụ bất toàn, nhưng hữu ích và cần thiết của Chúa, của Giáo hội.
GLV chỉ là người trồng tỉa, vun tưới, còn chính Chúa, Đấng ban cho có hạt mầm Đức tin và cho nó mọc lên.

GLV trong mọi hoàn cảnh: không chán nản khi thất bại, không tự đắc khi thành công, luôn tự nhũ lòng mình: “Là đày tớ, con thật bất tài…”.

 

6. NIỀM VUI CỦA GIÁO LÝ VIÊN
- Vui vì biết mình góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội, thăng tiến con người, hoán cải lòng người.
- Vui vì được cộng tác với Thánh Thần trong công cuộc mở mang Nước Trời.
- Vui vì biết mình đã làm theo Thánh ý Chúa

 

7. LINH ĐẠO CỦA GIÁO LÝ VIÊN
GLV cần có một linh đạo sâu sắc, nghĩa là sống trong Chúa Thánh Thần, Đấng luôn giúp họ canh tân đời sống ơn gọi riêng biệt của mình.
Như mỗi tín hữu, GLV được mời gọi “nên thánh và truyền giáo”, nghĩa là sống Ơn gọi của mình “với lòng nhiệt thành của các thánh”.(Đgh.Phaolô VI)
- Linh đạo GLV liên hệ với ơn gọi Tông đồ, biểu hiện qua các dự kiện:
Đón nhận Lời Chúa: qua đó, đón nhận TCBN, Giáo hội, cả Thế giới.
Trung thực và nhiệt tình truyền giáo.
Sùng kính mẹ Maria: giầu tinh thần Maria. (Hd.GLV 6-10)
- Linh đạo GLV là con đường tu đức, biểu lộ qua thái độ sống :
1. Yêu mến Chúa Kitô.
2. Gắn bó với Giáo Hội.
3. Thăng tiến con người.

 

Bài 3. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM

I. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
1. Định nghĩa.
- Phương pháp là những nguyên tắc, những phương thế để hướng dẫn thực hiện công việc, hầu đạt tới mục đích cách dễ dàng.
- Sư phạm (Sư là Thầy; Phạm là Qui tắc): là qui tắc để làm thầy dạy. Sư phạm là thứ khoa học - kỹ thuật, có nhiệm vụ khởi thảo một học thuyết và đưa ra thực hành trong ngành giáo dục và đào tạo.
- Khoa Sư phạm liên quan đến tâm lý học, sinh lý học, xã hội học, nhằm giúp cho nhà sư phạm hiểu biết các định luật về đời sống con người. Nhờ sự hiểu biết đó, việc giáo dục con người sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

 

2. Tương quan Sư phạm giáo dục.
Có 3 tương quan Sư phạm: Thầy - Trò - Kiến thức

.............................- biết
............Kiến thức:- biết hành
............................- biết thành
Giảng dạy Thực tập: - Tài liệu, Bài tập

Thầy Trò: cá nhân, nhóm

 

3. Ba Hình thức Sư phạm căn bản.
(Giảng dạy - Linh hoạt - Thực tập.

Giảng dạy: Thầy thông truyền Kiến thức cho trò. Đó là bài thuyết trình, từ ngữ, nội dung. Vấn đề: nói, nghe, và ghi nhận.

Linh hoạt: tương quan giữa thầy - trò là chủ yếu. Thầy nhường chỗ cho trò và gián tiếp giúp trò đạt kiến thức qua việc nói lên kinh nghiệm sống, khó khăn vươn lên... Vận dụng các phương pháp đối thoại, chia sẻ, thảo luận... Vấn đề: là bản thân, là sống động.

Thực tập: tương quan giữa Trò và Kiến thức là chủ yếu. Thầy có khả năng khơi dậy cho trò thực hành, tự điều chỉnh. Vấn đề: là hoạt động và làm. Cần sử dụng những tư liệu, phương pháp sinh hoạt, trò chơi...
Cả 3 hình thức sư phạm trên, tuỳ trường hợp, lứa tuổi, trình độ, ta có thể dung hoà với nhau, thì việc giảng dạy mới đạt hiệu quả cao.

 

II. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM ỨNG DỤNG GIÁO LÝ
1. Phương pháp Qui nạp.
Qui nạp là phương pháp lý luận triết học, khởi đầu bằng cách nghiên cứu các trường hợp riêng biệt; kế đến là rút ra kinh nghiệm; sau cùng là đưa ra định luật chung.
Ví dụ: Ông A, ông B, bà C đã chết;
Mà A.B.C đều là người;
Vậy mọi người đều phải chết

Quy nạp trong Giáo lý: là đưa ra những sự việc làm khởi điểm (chẳng hạn các biến cố trong Thánh Kinh, các hoạt động Phụng Vụ, đời sống Giáo Hội, đời sống thường ngày) cốt để tìm ra ý nghĩa của chúng trong mạc khải của Chúa. Phương pháp này phù hợp với tâm lý con người thích đi từ những cái cụ thể để hiểu những việc trừu tượng; cũng phù hợp với cách hiểu biết của đức tin, đó là các hiểu biết nhờ các dấu chỉ (theo thực tế gọi là phương pháp đi lên, từ loài người lên Thiên Chúa). Phương pháp này không loại trừ nhưng cần đến phương pháp Diễn dịch.

Áp dụng dạy giáo lý: Bài giáo lý có thể 3 giai đoạn:
- Giới thiệu: đưa ra sự kiện, câu chuyện (PÂ) làm khởi điểm.
- Giải thích: từ sự kiện đó rút ra những ý tưởng, bài học thích hợp.
- Áp dụng: Đem ý tưởng, bài học đó vào đề tài Giáo lý muốn trình bày.

Ví dụ:
- Giới thiệu: Dụ ngôn đứa con phung phá, khi trở về, cha nó vui mừng đón tiếp.
- Bài học: Thiên Chúa là Cha nhân từ đối với tội nhân.
- Áp dụng: Tất cả là tội nhân : hãy trở về với Cha.
Phương pháp nầy dành cho học sinh cấp 1: Thích cụ thể, quan sát.

 

2. Phương pháp Diễn dịch (suy diễn):
Diễn dịch là phương pháp lý luận triết học đi từ định luật, ý niệm tổng quát đến từng trường hợp cá biệt, rồi rút ra nhận định.
Ví dụ: Mọi người đều phải chết;
Mà Ông A là người; ông B là người; bà C là người;
Vậy Ông A. ông B. bà C sẽ phải chết.
Diễn dịch trong Giáo lý: là giải thích và mô tả sự việc đi từ những nguyên nhân riêng biệt của chúng (gọi là phương pháp đi xuống), đi từ sứ điệp mặc khải trong Thánh Kinh, Phụng Vụ, Giáo lý với việc áp dụng thực hành trong đời sống.

Áp dụng trong giáo lý:
- Giới thiệu: Người ta cần phải ăn để sống.
- Thể xác bồi dưỡng bằng Bữa ăn để lớn lên, phát triển, vui vẻ.
- Áp dụng: Linh hồn cũng cần bồi dưỡng, sống bằng tiệc Thánh Thể.
Phương pháp này dành cho học sinh cấp 2: tuổi biết suy luận, trí khôn đang phát triển.

 

3. Phương pháp Giáo thụ (méthode didactique)
Phương pháp này mang hình thức thuyết minh để thông truyền kiến thức nhanh chóng: thầy soạn bài và trình bày kiến thức, trò nghe, ghi chú.

Phương pháp này thụ động, lớp học dễ buồn tẻ : dành cho học sinh cấp 3, vì dễ tiếp thu, và đỡ tốn thời giờ.

 

4. Phương pháp Trực giác (méthode intuitive)
Trực giác là khả năng cảm biết ngẫu phát của con người, không cần phải suy nghĩ hay tìm tòi hay qua trung gian nào. Có loại Trực giác cảm, lý trí trực giác, đạo đức trực giác, trực giác nhân tạo.

Phương pháp trực giác là căn cứ vào việc quan sát sự vật cụ thể qua giác quan (sờ mó, nếm, ngửi, nghe, cân, đo..) để rồi suy nghĩ, tự rút kinh nghiệm, tìm ra tính chất và công dụng hay bài học cho sự vật.

Đây là nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới và thường được áp dụng cho tuổi ấu nhi, mẫu giáo.

Thí dụ: Nếm ớt, biết cay; Sờ lửa, biết lửa nóng Từ nay, biết ớt cay, lửa nóng, nên không nếm ớt, không sờ lửa. Châm ngôn của Phương pháp Trực giác: Vật trước - Lời sau.

 

5. Phương pháp Hoạt động (hay Chủ động) (Méthode active)
Đây là phương pháp tạo điều kiện cho các học viên tích cực tham gia khám phá chân lý, nhờ những suy tư, đối thoại và hoạt động của mình. Phương pháp này làm nổi bật những tiến bộ của phần trí dục, nhằm mở mang kiến thức, vừa rèn luyện các tập quán tốt. Nó kích thích óc sáng tạo, làm cho học viên luôn khao khát tìm hiểu để làm cho hay, cho đẹp hơn. Có 2 cách hình thành phương pháp hoạt động:

Đối thoại: là đặt vấn đề, đặt câu hỏi, câu đố, “gợi ý” giúp học viên động não, để “tiệm tiến” từng bước đến chân lý. Đây là phương pháp mà Socrate dùng để huấn luyện đồ đệ (x. SPCH.47; PPNĐ.87).

Sinh hoạt: Nhằm vận dụng cơ năng hoạt động của học viên, như trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, sự khéo léo chân tay, giọng hát... để giúp học viên tham gia tích cực vào bài học, giúp hiểu sâu và nhớ lâu hơn những gì nghe (x.SHGL.77). Có 3 loại hình Sinh hoạt lớp : Sinh hoạt nhóm, sinh hoạt toàn lớp, sinh hoạt cá nhân thay cho cả lớp.

Áp dụng vào giáo lý:
- Dùng Đối thoại: để Giải thích Lời Chúa hay bài giáo lý, bằng cách gợi lên ước muốn học hỏi, kích thích suy nghĩ và hành động dấn thân. (x. SP. Câu hỏi. Tr. 47; PP. Năng động Nhóm. Tr. 87).

- Dùng Sinh hoạt: để tạo bầu khí, kích thích óc sáng tạo, ghi nhớ bài học: Vẽ, bài viết, hát, múa, băng reo, kể chuyện, trò chơi, sáng tác thơ, câu đố... (x. SINH HOẠT GIÁO LÝ, tr. 77).

 

Bài 4. SƯ PHẠM GIÁO LÝ: SƯ PHẠM ĐỨC TIN
Sư phạm Thiên Chúa là nguồn mạch và mẫu mực cho Sư phạm Đức tin (TQ.DGL )
Sư phạm Thiên Chúa là gì? được diễn tả như thế nào? Giáo Hội đã ứng dụng thế nào trong việc Dạy Giáo lý?

 

I. SƯ PHẠM CỦA THIÊN CHÚA
1. Thiên Chúa là Cha nhân từ, như bậc Thầy khôn ngoan:
Ngài hiểu biết tình trạng của con cái mình, muốn con cái khỏi khổ, khỏi nô lệ điều xấu, nên Thiên Chúa đã lấy tình thương, tìm mọi cách để giáo dục con cái dần dần trưởng thành hơn, biết nghe lẽ phải, nghe lời Cha mình để trở thành con hiếu thảo.
Ngài lấy những thất bại của Dân Chúa làm bài học dạy khôn cho họ, dùng giáo huấn truyền tụng từ đời này sang đời kia, dùng thưởng phạt để giáo dục Dân Chúa nghe theo lời Ngài và để Ngài dẫn dắt.

 

2. Chúa Giêsu Kitô được sai xuống trần gian tiếp tục sư phạm của Thiên Chúa. Ngài làThầy dạy duy nhất:
Ngài dùng lời nói, dấu hiệu, việc làm để đào tạo các môn đệ: tiếp nhận mọi người nhất là người nghèo, trẻ em, người tội lỗi. Ngài loan báo Nước Thiên Chúa đang đến như Tin Mừng an ủi của Chúa Cha. Ngài bày tỏ một tình yêu tế nhị, mạnh mẽ có thể giải thoát khỏi sự dữ.
Ngài mời gọi mọi người sống theo đức tin nơi Thiên Chúa, đức trông cậy nơi Nước Thiên Chúa, và đức mến đối với mọi người.
Ngài sử dụng mọi phương thế thành công giữa người với người, như: lời nói, thinh lặng, dụ ngôn, hình ảnh, ví dụ để thông truyền sứ điệp TM.
Ngài dùng đời sống mình để dạy các môn đệ: đặt các câu hỏi thích hợp để kích động họ, giải thích sâu hơn cho họ hiểu điều Ngài dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ cầu nguyện, sai đi thực tập truyền giáo, hứa ban Chúa Thánh Thần của Chúa Cha để họ hiểu chân lý, và nâng đỡ họ khi gặp khó khăn thử thách.
Ngài là Thầy, là Bạn kiên nhẫn và trung tín của họ. Ngài muốn môn đệ theo sư phạm của Ngài.

 

3. Chúa Thánh Thần: được gọi là Thần Chân lý, Đấng Bảo trợ.
Ngài được Đức Kitô sai đến để ở với các môn đệ, soi sáng, nhắc nhở để các ông nhớ lại Lời Chúa Giêsu. Chính ngài là Đấng khai sinh Hội thánh, và làm phát sinh mầm móng đức tin nơi con người. Chính Ngài là Đấng làm cho GLV say mê Lời Chúa, và ban ơn trợ giúp để chúng ta hăng say dấn thân phục vụ.

 

4. Giáo Hội tiếp nối Sư phạm của Chúa Cha và Chúa Con, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Giáo hội dùng chính nếp sống cộng đoàn là hiệp thông trong cầu nguyện, trong cử hành phụng vụ, bác ái, để dạy Giáo lý. Giáo Hội có một kho tàng về sư phạm đức tin:
Trước hết là chứng từ của các GLV thánh thiện, rồi các khoá Dự tòng, các Sách giáo lý, Tổ chức huấn giáo. . .
Giáo Hội đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bảo trợ, đổi mới… để chu toàn nhiệm vụ theo Sư phạm của đức tin.

Có thể nói được:
Sư phạm của Thiên Chúa là dùng đối thoại, đi bước trước đến với con người, tôn trọng tự do của họ, chấp nhận phải kiên trì, tiệm tiến, thích nghi, theo lối Sư phạm của cuộc Nhập Thể.
Dạy Giáo lý theo sư phạm của Thiên Chúa mời gọi GLV luôn phải trung thành với Thiên Chúa và trung thành với mọi người trong tình yêu mến, để Phúc Âm hoá trong khi giáo dục, và giáo dục trong khi Phúc Âm hoá.

 

II. SƯ PHẠM ĐỨC TIN
Sư phạm Giáo lý là tổng hợp Sư phạm Thiên Chúa và Sư phạm con người, mời gọi GLV hãy nhìn và học hỏi Sư phạm Thiên Chúa để trung thành với Lời Chúa và biết sử dụng tất cả những cách thế, những yếu tố (phương tiện kỹ thuật, dụng cụ truyền thông) trong giảng dạy giáo lý để đạt được mục đích là Giáo Dục Đức Tin.

- “Sư phạm Giáo lý nhằm giúp con người nghe tiếng Chúa, hiểu và đáp trả, làm nẩy sinh mầm móng Đức tin”.

Giáo Hội dùng nhiều phương pháp giáo dục của thời đại để trung thành với con người, vì con người rất khác nhau về tuổi tác, về trình độ trí thức, về văn hoá, về hoàn cảnh. Có áp dụng được nhiều phương pháp giáo dục, sẽ làm cho việc dạy Giáo lý vừa linh động vừa phong phú, đạt hiệu quả cao là nhờ Ơn Chúa và do sự cộng tác con người.

Tuy nhiên, điều quan trọng là các “Phương pháp phải thích hợp với nội dung hay bản chất của sứ điệp”, hợp với hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn Giáo Hội, với điều kiện riêng của tín hữu (dùng phương pháp hoạt động để dạy giáo lý đúng nghĩa, dùng ngôn ngữ diễn tả đúng nội dung). Hướng dẫn tổng quát để Dạy Giáo lý (1997) của Bộ Giáo sĩ có nhắc tới những phương pháp thích hợp theo truyền thống Giáo Hội là:

phương pháp quy nạp và diễn dịch

phương pháp tiếp cận Thánh Kinh (tìm hiểu từng bước),

phương pháp sử dụng tài liệu (dùng Kinh để dạy),

phương pháp dùng các dấu hiệu trong Phụng Vụ và trong Giáo Hội,

phương pháp truyền thông xã hội, (phim ảnh)

phương pháp cảm nghiệm,

phương pháp thuộc lòng.

 

Bài 5. CHÚA GIÊSU NHÀ SƯ PHẠM GIÁO LÝ
Nhập: Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể, khi rao giảng Tin mừng, Ngài có những đường lối riêng để truyền đạt sứ điệp Giáo lý cao siêu của Ngài.
Nhờ sự diễn tả của 4 Thánh sử, chúng ta rút ra được những cái gọi là : Phương pháp Sư phạm của Chúa Giêsu.

 

1. Phương pháp HÌNH ẢNH sống động
Bằng hình ảnh, những dụ ngôn, kiểu nói đơn sơ dễ hiểu : Chúa Giêsu trình bày giáo lý và các mầu nhiệm Nước Trời cách sống động, vừa tầm người nghe và đề ra những áp dụng trong cuộc sống.
Vd: Dụ ngôn người gieo giống, Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu..
Ngài giảng bằng gương đời sống, hành động :
Vd: Ngài rửa chân : dạy khiêm nhường và phục vụ.(Ga 13,4-5)
Ngài Cầu nguyện suốt đêm : dạy cầu nguyện (Lc 11,1-2)

 

2. Phương pháp TRỰC GIÁC - QUI NẠP, Cụ thể
Chúa Giêsu dùng kinh nghiệm sống và ngôn ngữ của dân chúng thời đại, những sự cụ thể để dạy những mầu nhiệm Nước Trời :
- Mt 6,6,25-28: “Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng...
- Mt 7,24-27: Xây nhà trên cát, mưa đổ, sóng tràn, gió ùa...
- Lc 13,20-21 : Men trong bột.
- Lc 6,43: “Cây tốt sinh trái tốt”.
- Lc 8,16: Thắp đèn rồi để trên giá.
- Mt 24,43: Đợi chủ về: thức-ngủ ; kẻ trộm đến.
Chúa Giêsu dùng những biến cố xảy đến để dạy:
- Lc 13,1: Những người Galilê bị Philatô giết.
- Lc 13, 4: 18 người bị tháp Siloê đè chết.

 

3. Phương pháp TRUYỀN THỤ
Tuỳ theo đối tượng, thích ứng ngôn ngữ, tâm lý và trình độ hiểu biết:
Giảng trực tiếp với dân chúng: Bài giảng trên núi (Mt 5), bài giảng về Bánh (Ga 6)
Giảng trực tiếp riêng với các môn đệ: Cây nho thật (Ga 15)
Giảng cho luật sĩ, Biệt phái: Luật rửa tay, ô uế (Mt 7)
Giảng cho thiếu phụ xứ Samaria : Bên bờ giếng (Ga 4)

 

4. Phương pháp CÂU HỎI và ĐỐI THOẠI.
Đặt câu hỏi để đánh động, suy nghĩ: “Được lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mc 8,36)
“Các người thấy gì trong sa mạc ?”
Dùng cảnh đối nghịch để gây ấn tượng mạnh vào tâm hồn người nghe: “Ai giữ mạng, sẽ mất, Ai mất mạng vì Ta, sẽ được lại” (Mc 8,35).
Dùng câu hỏi ngược lại: để gởi lại người chất vấn về trí tuệ, quyết định: “Sao con đã làm như thế ? - Cha mẹ không biết rằng Con phải...” (Lc 2,48-49); Hay: Có thật ông là Đấng Mêsia phải đến ? - Các ngươi không đọc thấy: người mù được thấy, kể què được đi...? (Lc 7,20)

 

5. Đúc kết thành câu CHÂM NGÔN
Thông thường, sau bài giảng giải, Ngài đúc kết bằng những câu ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ :
Về cầu nguyện: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp”.
Về khiêm tốn: “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống…”
Về Phục vụ: “Ta đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ”.
Về bền đổ: “Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít”.

6. Phương pháp Mời gọi THỰC HÀNH
Thông thường, sau mỗi bài giảng, bài dụ ngôn, Chúa Giêsu luôn có lời mời gọi áp dụng thực hành:
Sau dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu:”Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37) Với chàng thanh niên đến hỏi: “Tôi phải làm gì để được sống ?”
”Hãy bán những gì ngươi có...” Bữa tiệc ly: "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (1Co 11,24)

7. Dùng KINH THÁNH để chứng minh
- Chuyện hai môn đệ làng Emmau (Lc 24,25-27)
- Nhắc lại chuyện vua Đavít và đoàn tuỳ tùng...

 

Kết luận: Chúa Giêsu: Nhà Sư phạm - Giáo Lý Viên Gương mẫu
1. Chúa Giêsu giảng bất cứ ở đâu, cho bất cứ ai.
2. Chúa dùng phương tiện sẵn có để trình bày.
3. Chúa dùng từ ngữ, hình ảnh cụ thể, đơn sơ, chân tình.
4. Bài giảng được lồng vào câu chuyện và đúc kết câu châm ngôn.
5. Trich dẫn Thánh Kinh để minh chứng ý tưởng.
6. Bài giảng nhằm cảm hoá, mời gọi thực hành trong cuộc sống.
7. Chúa dạy bằng gương mẫu đời sống.

 

Bài 6. NGUYÊN TẮC DẠY GIÁO LÝ
1. BA TỪ NGỮ không thể thiếu trong việc DẠY GIÁO LÝ

Traditio - Receptio - Redditio
Thông truyền - TM Đón nhận TM - Đáp trả Tin Mừng

 

2. BA NGUYÊN TẮC căn bản trong việc DẠY GIÁO LÝ
Giáo dục là đào tạo con người tự nhiên thành người.
Giáo lý, là đào tạo con người thành con Thiên Chúa, là thăng tiến con người đến mức độ trưởng thành trong đức tin.
Để đạt mục đích đó, cần có những nguyên tắc hướng dẫn thực hành:
Nguyên tắc toàn diện (intégrité):
Nguyên tắc thích ứng (adaptation)
Nguyên tắc sống động (vivant)

 

1). Nguyên tắc toàn diện (intégrité):
Toàn diện trong nội dung: có 4 phần trong sách GLGHCG
Toàn diện con người: - Trí khôn lãnh hội; tình cảm rung động trong cầu nguyện; Ý chí quyết tâm sống đời sống mới; Toàn thân diễn tả: lời nói, bộ điệu, cử chỉ, thái độ tâm linh.
Toàn diện lãnh vực sống: Gia đình - Học đường - Xứ đạo - Khu xóm.

 

2). Nguyên tắc thích ứng:
- Trình bày sứ điệp vừa tầm lãnh nhận của người nghe, vì thế cần: Thích ứng theo lứa tuổi: Ấu, Thiếu nhi, Thiếu niên, Thanh niên.
Thích ứng theo môi trường, văn hoá, hoàn cảnh sống.
Thích ứng theo nội dung và phương pháp.

 

3). Nguyên tắc sống động:
Lời Chúa sống động. Trình bày Lời Chúa cách sống động, là cánh cửa mở rộng tương lai, là mời gọi và khích lệ người nghe dấn thân lên đường thực hiện theo Lời Chúa. GLV cố tìm những phương pháp hiện đại, sống động để dạy Giáo lý, như : Đối thoại, Hội thảo, Sinh hoạt, tranh ảnh, vidéo. ..

 

3. BA BƯỚC DẠY TỐT GIÁO LÝ
1. TRƯỚC KHI DẠY

Chuẩn bị xa:
Cầu nguyện: suy gẫm và thấm nhuần Lời Chúa để thông truyền.

Soạn bài:
- Hiểu biết Đề tài và ý chính, tâm tình của bài dạy.
- Viết thành giáo án ngắn gọn, đầy đủ để trình bày.
- Viết lời nguyện, bài học thực hành, quyết tâm sống.
- Tìm tài liệu, dụng cụ cần thiết để quãng diễn, minh hoạ.
Muốn dạy hay, cần thuộc lòng, để tự tin, phấn khởi.
Chuẩn bị gần: Ngay trước giờ dạy:
Đến trước vài phút để:
Đón tiếp, Gặp gỡ, tìm hiểu học viên.
Xem phòng lớp, trang trí, sạch sẽ, dụng cụ.

 

2. TRONG GIỜ DẠY
Xem “Diễn tiến một giờ Giáo Lý” (Phụ Chương, tr.104)

 

A. Mỗi Bài Dạy giáo lý có ít nhất ba phần chính:
1). Trình bày sứ điệp: dưới hình thức một câu chuyện (rút ở Kinh Thánh, bổ túc bằng thị giác nếu có thể).
2). Giải thích: từ câu chuyện rút ra giáo điều rồi giải thích, đặt câu hỏi và lập một bảng tóm tắt trên bảng, sau đó đưa vào toàn bộ giáo lý để xác định rõ ràng giáo điều đã giải thích.
3). Áp dụng thực hành: là đưa những chân lý đã dạy vào đời sống và hành vi đứa trẻ. GLV hãy gợi cho chúng:
a. Những quyết định cần phải làm.
b. Những điều thực hành phải giữ.
c. Thực hành ngay bằng cách cầu nguyện.

 

B. Bốn phương thức để Giáo lý đi vào chiều sâu:
Suy nghĩ: từ khởi điểm Lời Chúa hay kinh nghiệm sống, giáo lý thúc đẩy suy nghĩ, khám phá, nhận định.
Đối thoại: Đối thoại với nhau làm cho suy nghĩ thêm phong phú, giải thích giáo điều, tạo bầu khí tin tưởng, chân thành, tích cực.
Cầu nguyện: học hiểu về Thiên Chúa, cần dẫn đến sự gặp gỡ thân tình, hiệp thông thân mật với Chúa qua cầu nguyện.
Hành động: Giáo lý thực sự tác động lên cách sống, biến thành dấn thân đáp trả và không ngừng hoán cải.

 

3. SAU KHI DẠY
GLV và học viên tiếp tục sống sứ điệp Tin mừng, sống bí tích, sống bác ái: trong gia đình, học đường, giáo xứ.
GLV phải làm gương đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích, đó là bài giảng hay nhất.
GLV kiểm tra bài củ, soạn và sửa bài, tìm thêm chất liệu để dạy bài mới.

 

4. VÀI LƯU Ý KHI DẠY GIÁO LÝ
1. Hãy chú ý tới bạn trẻ hơn tới sách vở.
Sách Giáo lý chỉ có tính cách chỉ dẫn đời sống Kitô hữu, chứ không phải một bản văn để học thuộc lòng. Học thuộc lòng suông mà không có sự giảng giải thích hợp có thể trở thành độc hại, gây nhàm chán. . .

GLV phải đưa bạn trẻ vào thế giới đức tin, sao cho những chân lý mạc khải trở thành những lý tưởng sáng ngời hướng dẫn đời sống, thành những động lực mạnh mẽ thúc đẩy trẻ bước đi trên đường trọn lành.

 

2. Mỗi bài giáo lý cần có mục đích nhất định.
Luôn có một mục đích học hỏi. Đó là lẽ dĩ nhiên. GLV cần xác định ý chính của mỗi bài giáo lý để tập trung và ghi sâu vào trí nhớ của trẻ.

Luôn có một mục đích hướng dẫn thực hành, nghĩa là giáo lý phải được đưa vào cuộc đời bạn trẻ, GLV cố gắng giúp bạn trẻ sống với mỗi chân lý, sống hiệp thông với Thiên Chúa.

Cần có mục đích gợi cảm, ít là khi gặp những chân lý quan trọng, GLV phải nhờ đến cảm xúc và kinh nghiệm bản thân để làm cho giáo lý ăn sâu vào tâm can và trí tưởng tượng của bạn trẻ.

 

3. Cần sửa soạn tâm trí để trẻ đón nhận giáo lý, cũng như cần sửa soạn đất để gieo giống. Công việc này thực hiện bằng cách:
Nhắc lại những gì đứa trẻ đã biết về vấn đề;

Nhắc lại kiến thức về những giáo điều liên hệ (rất cần thiết cho trẻ em để nhờ cái đã biết mà học thêm điều mới lạ).

GLV phải biết gây lên thích thú của trẻ đối với Chúa Kitô và Nước Trời. "Tất cả công việc giáo dục là tìm và đưa hứng thú vào đúng hướng". Ước muốn lay động ý chí, hứng thú thúc đẩy ước muốn, nhưng ta không thể bắt trẻ phải có hứng thú được, mà GLV cần phải gợi lên cho họ.

 

KẾT LUẬN:
GLV làm hết sức mình để việc dạy tốt đẹp, còn kết quả tuỳ Ơn Chúa. Nên nhớ: “Ta vun trồng, nhưng chính Chúa cho trổ sinh hoa quả”
Mỗi lần soạn bài, xin Chúa cho ta biết nói gì, nói thế nào ? Xin Chúa giúp ta sống điều ta sẽ dạy cho học viên.

Đừng quên cầu nguyện cho học viên, vì: “Chỉ mình Chúa mới có thể biến đổi lòng người”.Và sau khi đã làm hết sức mình, hãy thân thưa với Chúa: “Con chỉ là đầy tớ vô dụng”. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha”.

 

Bài 7. LỚP GIÁO LÝ

Giáo lý, xét theo khía cạnh như một môn học: có thầy dạy trò nghe, có giờ lớp - phòng lớp... Nhưng còn hơn thế, Giáo lý còn nhằm giáo dục đức tin, đưa đến sự gặp gỡ và hiệp thông thân mật với Chúa Kitô.
Vậy, Lớp Giáo lý là gì? Đâu là đặc tính làm cho lớp Giáo lý mang ý nghĩa đích thực của nó, khác với các môn học khác? GLV cần tạo bầu khí Lớp Giáo lý như thế nào?

 

I. ĐẶC TÍNH LỚP GIÁO LÝ
1. Lớp Giáo lý QUẢNG CÁO CHÚA GIÊSU
Trung tâm của Giáo lý, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài “là Đường, là Sự Thật, là Sự sống”, là Đấng dẫn ta đến cùng Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, vì thế:

GLV giới thiệu Chúa Giêsu, một con người cụ thể, vui tươi, dễ mến, để người nghe yêu mến Chúa và bắt chước sống theo gương Chúa Giêsu.

GLV giới thiệu Chúa Giêsu nhân lành, không so đo, chấp nhất, không là vị quan toà nghiêm khắc, không là vị tham quan, hối lộ.

GLV giới thiệu Chúa Giêsu là ông Đạo, là Đấng Cứu thế, Đấng đã chết trên thập giá và sống lại để minh chứng tình yêu cứu độ nhân loại.

Giới thiệu Chúa Giêsu là Chúa, vừa là Cha, là Thầy, là Bạn ... luôn yêu thương, cảm thông và đồng hành với người trẻ trong mọi hoàn cảnh.

 

2. Lớp Giáo lý ĐÀO TẠO CÁC THÁNH
Thánh là gì? Là thiện hảo, tốt lành hoàn toàn : Chỉ có Chúa là Đấng Thánh. Những gì thuộc về Chúa, cũng được thông phần sự Thánh của Chúa (đồ thánh, đất thánh, người thánh, Thánh lễ...) Thánh còn mang ý nghĩa: tai nghe, miệng nói và làm những điều tốt lành (vị thánh sống).
Lớp Giáo lý đòi hỏi GLV phải Thánh, nghĩa là thuộc về Chúa, là sống trọn kiếp người với đồng loại và sống trọn nghĩa làm con Chúa.
GLV khuyên dạy các học viên làm nhiều việc lành, việc bái ái, khuyến khích làm công tác xã hội... đó chính là nỗ lực Sống Thánh.

 

3. Lớp Giáo lý HUẤN LUYỆN TIN “CẬY” MẾN
Các môn học khác không cần phải tin, nhưng học giáo lý cần phải TIN: GLV tin, học viên tin, vì đó là lớp thông truyền đức tin, huấn luyện đức tin, giúp trưởng thành đức tin.

GLV viên cần phải làm, phải nói cho học viên Tin : làm chứng nhân đức tin. Tin đến Yêu, càng Yêu để Tin nhiều hơn. Nhờ có Tin-Yêu, học viên trông cậy vào Ơn Chúa và sống hi vọng hạnh phúc nơi Quê Trời.

 

4. Lớp Giáo lý huấn luyện tình LIÊN ĐỚI và sống HIỆP THÔNG
GLV dạy về tình liên đới : một hành vi, một lời nói tốt-xấu của ta đều có ảnh hưởng đến người khác. Liên đới để giúp nhau thăng tiến.
Lớp Giáo lý cũng nhằm huấn luyện Các Thánh thông công : dâng Thánh lễ, cầu nguyện cho nhau, cho các linh hồn. Nên gợi ý về Phán xét như là công khai hoá mọi việc mình làm trong suốt cuộc sống.

GLV giúp học viên sống Hiệp thông trong Giáo hội: cho biết tin tức về Đức Giáo hoàng, Giám mục, Giáo phận, Họ đạo... để trẻ nhạy cảm vấn đề xã hội, gây ý thức yêu mến và cộng tác trong Giáo hội, khơi lên tinh thần Truyền giáo.

 

II. BẦU KHÍ LỚP GIÁO LÝ
Bầu khí lớp học rất quan trọng trong việc giáo dục. Giữ lớp, quét dọn phòng lớp sạch sẽ, ăn mặc trang nghiêm, trang trí theo chủ đề sẽ làm cho sự giáo dục đạt kết quả hơn.

 

1. BẦU KHÍ TRANG NGHIÊM
Lớp Giáo lý là nơi giáo dục đức tin, đào tạo "Các Thánh", nên bầu khí trang nghiêm cần được duy trì nơi mỗi thành viên, nhờ đó, các học viên dễ dàng gặp gỡ, tiếp xúc và cầu nguyện thân tình với Chúa.

Vì thế, tránh gây xáo động, quá sôi nổi, ồn ào trong giờ Giáo lý, nhưng cũng đừng quá nghiêm khắc thành nặng nề, buồn chán...

 

2. BẦU KHÍ NIỀM NỞ, QUAN TÂM
Dù dạy bất cứ ở đâu, điều quan trọng trong việc xây dựng bầu khí học tập: đó là sự niềm nở, quan tâm của GLV.

Điều nầy có nghĩa là khi GLV và học viên họp nhau trong phòng lớp, ngay cả khi có phụ huynh hoặc khách tham quan, mọi người đều cảm nhận được sự quan tâm, niềm nở của GLV đối với học viên.

Sự quan tâm được bộc lộ qua việc niềm nở đón tiếp các em, lắng nghe tiếng nói, nhìn và hiểu được những ước muốn, khó khăn của các em biểu lộ qua cử chỉ, lời nói, hành động... để khuyến khích những tình cảm tích cực và giảm thiểu những tiêu cực.
Sự quan tâm của GLV qua việc sắp xếp phòng lớp, trang trí, thay đổi bầu khí thêm vui tươi, hấp dẫn qua ca hát, kể chuyện, lớp học vui...

 

3. BẦU KHÍ KỶ LUẬT
Kỷ luật trong lớp Giáo lý, đó là hình thức biểu lộ sự kính trọng hơn là bộc lộ quyền hành. Kỷ luật nhằm duy trì trật tự, cũng nhằm tôn trọng quyền lợi và nhu cầu của người khác.

Cần xác định: vấn đề kỷ luật và trật tự trong lớp học rất quan trọng, nhưng nó không là mục tiêu cuối cùng. Mục đích của kỷ luật là giúp các học viên tiếp thu đầy đủ bài học. Do đó, kỷ luật có thể thay đổi tuỳ theo lớp học, lứa tuổi, tuỳ người hướng dẫn, chứ không cứng nhắc.

Thật quan trọng khi chính GLV là người làm gương giữ kỷ luật, xem như đó là cách tôn trọng các em, bằng việc giữ đúng giờ dạy, dạy đúng bài, chuẩn bị bài vở chu đáo...

Kỷ luật: cần qui định một số điều lệ căn bản, đơn giản, rõ ràng : Điều lệ càng ít càng tốt, miễn sao bảo đảm việc học tập tốt, trang nghiêm, trật tự vừa đủ để khỏi gây nên bầu khí nặng nề... như : muốn nói, phải giơ tay xin phép ; muốn ra-vào lớp, phải xin phép...
Tán thưởng: Cần tuyên dương tán thưởng, vì nó phát sinh và nuôi dưỡng lòng tự trọng, khiến các em tự giác giữ kỷ luật. Lời khen thưởng luôn trung thực, chân thành, đúng với nỗ lực và thành quả của các em.

Hình phạt: Cần thận trọng khi có những hành vi sai trái do trẻ gây ra. Cần bộc lộ cách cương quyết, không nhượng bộ. Nên kết án các hành vi sai trái, chứ không lên án, chỉ trích, nhục mạ người phạm lỗi. Vì thế, tránh đe doạ, nhục mạ, chế giễu, trừng trị... những điều đó có thể tạo trật tự nhanh, hoặc sự khúm núm bên ngoài, chứ chưa hoán cải tấm lòng các em. Đôi khi còn gây bực tức, sợ hãi, bỏ học...

 

4. TRANG TRÍ THEO CHỦ ĐỀ
Đây cũng là bí quyết mà GLV cần lưu ý và thực hiện, sẽ đem kết quả tốt cho bầu khí lớp Giáo lý, gây ấn tượng lâu dài cho bạn trẻ.
Chủ đề giáo lý cần được thực hiện bằng Vẽ, Cắt dán ... theo chủ đề, hoặc theo mùa Phụng vụ, sẽ lưu lại trí nhớ của học viên nhiều hơn.
Trí nhớ, xuyên qua mắt và tai, nếu được trình bày qua trang trí sẽ giúp các bạn trẻ nhớ lâu hơn. Đặc biệt, đó cũng là kỹ thuật để tạo ấn tượng khởi đầu, ngay lúc các học viên vừa bước vào lớp học, sẽ lưu lại mãi.

 

 

 

 

 

Trở Về Đầu Trang

 

 

Xin Thiên Chúa là Cha Nhân Từ chúc lành cho
Quý Cha, Quý Tu Sỹ và Quý Anh Chị Em
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ
Phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ